Những khẩu đại bác khổng lồ của Ottoman đã vang danh khắp châu Âu. Chúng thường được những Cơ đốc nhân nắm rõ các kỹ thuật hiện đại nhất hỗ trợ chế tạo.
![]() |
Tranh minh họa đại bác của quân Thổ. Nguồn ảnh: Johnsmachines. |
Nhờ vào lực lượng pháo binh cừ khôi của mình, Quốc vương Constantinople giờ đây đã kiểm soát được cỗ máy quân sự hiện đại và mạnh mẽ nhất mà thế giới từng biết đến; các quốc gia theo đạo Cơ đốc khi nhận thức rõ thực tế này thì đã vô cùng sợ hãi.
Những khẩu đại bác khổng lồ của Ottoman đã vang danh khắp châu Âu. Chúng thường được những Cơ đốc nhân nắm rõ các kỹ thuật hiện đại nhất hỗ trợ chế tạo. Người Ottoman cũng mua đại bác ở châu Âu hoặc sử dụng những khẩu đại bác mà họ chiếm được từ kẻ thù Cơ đốc giáo.
Từ năm 1521 đến năm 1541, theo F. Braudel, có 5.000 khẩu súng đã được sử dụng trong trận chiến ở Hungary. Francis I thậm chí còn gửi một số khẩu đại bác cho Suleiman vào thời điểm ông thực hiện cuộc viễn chinh ở Hungary năm 1543. Xe chở súng đại bác đã được những người Do Thái cải đạo nhập cư (Marrano) từ Tây Ban Nha đưa vào Ottoman, nhưng hầu hết súng ống đều được sản xuất trong khuôn khổ đế chế.
Ở quận Tophane (hoặc xưởng đúc) của Istanbul, nơi đặt doanh trại của các xạ thủ và vẫn giữ tên này cho đến ngày nay; và các xưởng đúc, đơn vị khác nằm rải rác khắp mọi tỉnh thành. Tổng cộng có khoảng một nghìn lính pháo binh, cộng với các chuyên gia về mìn nổ, súng cối và bom đạn, các đơn vị tham gia vận chuyển đại bác (topçu başi1), v.v.
Chính sức mạnh pháo binh của Ottoman đã khiến phần còn lại của thế giới Hồi giáo bị lép vế. Rõ ràng, Selim I đã dùng súng ống để nắm quyền kiểm soát Ai Cập và Syria. Vài năm sau ở Ba Tư, đại bác của Ottoman bắn phá Tabriz trong tám ngày liên tiếp cho đến khi thành phố thất thủ. Trong một thời gian dài, người Ottoman luôn cập nhật đầy đủ những phát triển mới nhất của khoa học quân sự. Sự tàn lụi của họ bắt đầu khi họ từ chối thừa nhận rằng các loại vũ khí từng giúp họ giành rất nhiều chiến thắng trong quá khứ đã trở nên lỗi thời.
Nhưng điều này vẫn còn là một chặng đường dài trong tương lai vào đầu thế kỷ XVI. Không pháo đài nào có thể chống lại được những khẩu đại bác của quân Ottoman hùng mạnh, cũng như không có đội quân nào có thể chống lại các trung đoàn bộ binh Porte hoặc các đội kỵ binh Porte, lại càng không thể chống lại được đội quân đông đảo của các kỵ binh cấp tỉnh (timariote).
Những kỵ binh cấp tỉnh này là những hiệp sĩ phong kiến hoặc chư hầu bị sa thải, những người góp sức tạo nên một phần của hệ thống phong kiến phức tạp: để đổi lấy doanh thu từ một mảnh đất (thường nhận được bằng thuế của người trồng trọt ở mảnh đất đó), họ buộc phải cầm vũ khí phục vụ cho Quốc vương bất cứ khi nào họ được kêu gọi.
![]() |
Tranh minh họa đại bác của quân Thổ. Nguồn ảnh: Johnsmachines. |
Số lượng người và loại thiết bị mà kỵ binh cấp tỉnh phải mang theo trong chiến dịch thay đổi tùy theo mức độ của khoản tài trợ quân sự (timar3). Nếu khoản tài trợ hàng năm trên 4.000 akçe, thì một người lính mặc áo giáp (cebelu1) phải đi kèm với kỵ binh cấp tỉnh; trên 15.000 akçe thì có thêm một người nữa và mỗi người nhận được thêm 3.000 akçe. Mỗi sĩ quan an ninh trưởng hoặc Thống đốc thị trấn (subaşi2) nhận được 4.000 akçe, và mỗi sĩ quan cấp cao hoặc Thống đốc tỉnh nhỏ nhận được 5.000 akçe. Kỵ binh cấp tỉnh phải được trang bị vũ khí, thường là cung, kiếm, chùy, thương và khiên.
Trên một mức thu nhập nhất định (30.000 akçe cho thống đốc thị trấn, 50.000 cho thống đốc tỉnh nhỏ), người lính cũng được yêu cầu trang bị áo giáp làm bằng thép mỏng cho ngựa (gecim) của mình và, trong mọi trường hợp, còn nhẹ hơn nhiều so với áo giáp của các kỵ sĩ Cơ đốc giáo (có một cái được trưng bày tại Bảo tàng Metropolitan ở New York).
Họ còn phải mang theo lều (số lượng và thể loại tùy thuộc vào doanh thu từ nguồn tài trợ của mình). Các kỵ binh cấp tỉnh chính yếu đã mang theo những chiếc lều được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau: làm kho bạc, nhà bếp, kho đựng yên ngựa, v.v.
Vì vậy, tất cả trang thiết bị cần thiết cho chiến dịch đã được ấn định và các chỉ huy đều biết chính xác lực lượng và vũ khí mà họ có thể trông cậy vào khi huy động quân đội. Một số kỵ binh cấp tỉnh có doanh thu vài trăm nghìn akçe đã mang theo cả phi đội.
Dưới sự chỉ huy của Thống đốc thị trấn, tất cả những người đàn ông này sẽ tập hợp ở khu vực thủ lĩnh cắm cờ vào một ngày đã thống nhất. Do đó, khi việc huy động đã hoàn tất, Thống đốc sẽ nắm quyền chỉ huy quân đội và dẫn họ đến nơi tập kết để duyệt binh trước mặt Quốc vương. Quân số bao gồm 50.000 đến 200.000, tạo thành đội kỵ binh hạng nhẹ của quân đoàn và dàn quân ở hai bên cánh trong đội hình chiến đấu.
📌 Bài viết này được đóng góp bởi người dùng và bản quyền thuộc về người dùng đã xây dựng bài viết. Bản quyền thuộc về tác giả gốc và chỉ dùng cho mục đích học tập và giao tiếp. Nếu có bất kỳ vi phạm nào, vui lòng liên hệ với chúng tôi để xóa nó.